DTV eBook - Mượn Sách Truyện Tiểu Thuyết Văn Học Miễn Phí Tải PRC/PDF/EPUB/AZW

Jerusalem Những Thăng Trầm Lịch Sử

Tác giả Simon Sebag
Bộ sách
Thể loại Lịch sử - Quân sự
Tình trạng Hoàn Thành
Định dạng eBook mobi pdf epub azw3
Lượt xem 1212
Từ khóa eBook mobi pdf epub azw3 full Simon Sebag Trần Quang Nghĩa Jerusalem Do Thái Hồi Giáo Lịch Sử Tham Khảo
Nguồn nghiencuulichsu.com
akishop
Ủng hộ để truy cập kho ebook Google drive TẠI ĐÂY

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Jerusalem Những Thăng Trầm Lịch Sử của tác giả Simon Sebag & Trần Quang Nghĩa (dịch).


Vào ngày 8 tháng Ab Do Thái, vào cuối tháng 7 năm 70 TCN, Titus, con trai của Hoàng đế La Mã Vespasia đang chỉ huy cuộc vây hãm bốn tháng, ra lệnh cho toàn quân chuẩn bị tràn vào Đền thờ vào bình minh. Ngày hôm sau tình cờ đúng vào ngày quân Babylon đã tàn phá Jerusalem 500 năm trước. Bây giờ Titus cầm đầu một đạo quân gồm bốn quân đoàn – tổng cộng 60,000 lính viễn chinh La Mã và những lực lượng bổ sung địa phương phấn khích giáng một đòn cuối cùng vào thành phố tơi tả nhưng thách thức. Bên trong tường thành, có lẽ nửa triệu người Do Thái đói khát còn sống sót trong điều kiện kinh khiếp: một số là những tín đồ tôn giáo cuồng tín, một số là những băng đảng cướp giật, còn phần đông là những gia đình vô tội không đào thoát ra được cái bẫy chết người hoành tráng. Có nhiều người Do Thái đang sống bên ngoài Judaea – họ chắc chắn có mặt ở khắp vùng Địa Trung Hải và Cận Đông – và trận chiến đấu tuyệt vọng cuối cùng này sẽ quyết định không chỉ số phận của thành phố và cư dân của nó, mà còn tương lai của Do Thái giáo và giáo phái nhỏ mới ra đời người Do Thái theo đạo Cơ đốc – và thậm chí, nhìn trước qua sáu thế kỷ, hình dạng của đạo Hồi.
Quân La Mã đã dựng thang leo chống vào tường thành của Đền Thờ. Nhưng trận tấn công của họ đã thất bại. Sáng sớm hôm đó, Titus bảo với các tướng lĩnh của mình rằng những nỗ lực của ông để bảo tồn ‘đền thờ nước ngoài’ này đã tốn quá nhiều xương máu binh sĩ và ông ra lệnh phóng hỏa cổng Đền. Chất bạc của cổng tan chảy và làm lửa lan đến khung gỗ của cửa vào và cửa sổ, từ đó đến những khớp nối bằng gỗ trong hành lang của chính Đền Thờ. Titus ra lệnh dập tắt lửa. Người La Mã, ông tuyên bố, không nên ‘trả thù vào những vật vô tri thay vì con người’. Sau đó ông lui về nghỉ đêm trong doanh trại đóng ở Tháp Antonia nửa phần đổ nát nhìn qua phức hợp Đền Thờ lộng lẫy.
Chung quanh bức tường, phơi bày những cảnh tượng ghê rợn chẳng khác nào địa ngục giữa trần gian. Hàng ngàn thi thể thối rữa phơi trong nắng. Mùi hôi thúi nồng nặc không sao chịu được. Từng đàn chó nhà và chó rừng mở tiệc trên xác người. Trong những tháng trước, Titus đã ra lệnh đóng đinh tất cả tù binh hoặc đào binh. 500 người Do Thái bị đóng đinh trên thập giá mỗi ngày. Núi Olives và những ngọn đồi lởm chởm chung quanh thành phố ken chặt các thập giá đến nỗi khó tìm chỗ cho một cái nữa, hoặc tìm gỗ để đóng chúng. Các binh sĩ của Titus đùa cợt bằng cách đóng đinh các nạn nhân của mình trên thập giá với tay chân căng ra trong những tư thế oái oăm. Nhiều cư dân Jerusalem tìm đủ mọi cách vô vọng mong trốn khỏi thành phố, khi họ bỏ đi, họ nuốt những đồng tiền, để giấu giếm tài sản của mình, hi vọng sẽ thu hồi lại khi đã thoát an toàn khỏi quân La Mã. Họ xuất hiện ‘bụng ỏng ra vì đói và phồng lên như người bị bệnh thũng’, nhưng nếu họ ăn vào họ ‘vỡ ra làm hai’. Khi bụng họ nổ bung, binh sĩ phát hiện những đồng vàng trong ruột bốc mùi hôi thúi, vì thế sau đó họ mổ ruột tất cả tù nhân, rạch ra nội tạng để tìm ruột của họ trong khi nạn nhân vẫn đang còn sống. Titus nghe được lấy làm khiếp đảm, ra lệnh cấm những trò cướp bóc kiểu giải phẫu này. Nhưng vô ích: quân đồng minh người Syria của Titus, vốn thù ghét và bị thù ghét bởi người Do Thái với tất cả ác ý của người láng giềng, khoái trá với những trò rùng rợn này. Những hành vi tàn bạo mà quân La Mã và những người nổi loạn trong tường thành gây ra có thể sánh ngang với một số những hành vi dã man tồi tệ nhất của thế kỷ 20.
Trận chiến đã bắt đầu khi sự bất lực và tính tham lam của những thống đốc La Mã đã thúc đẩy ngay cả giới quí tộc Do Thái, những đồng minh của La Mã, đi theo chính nghĩa chung với một cuộc nổi dậy tôn giáo rộng khắp. Những người nổi dậy pha trộn những người Do Thái sùng tín và bọn kẻ cướp cơ hội đã lợi dụng sự rơi đài của vị hoàng đế, Nero, và tình hình hỗn loạn xảy ra sau khi y tự sát, để đánh đuổi quân La Mã và tái lập nhà nước Do Thái độc lập, đặt căn cứ chung quanh Đền Thờ. Nhưng cuộc cách mạng Do Thái ngay lập tức tự làm tiêu hao mình trong những vụ thanh trừng và thanh toán đổ máu giữa các băng nhóm đường phố.
Ba vị hoàng đế La Mã tiếp sau Nero trong những loạt kế vị nhanh chóng và trong hỗn loạn. Đến khi Vespasian xuất hiện dưới vai trò hoàng đế và phái Titus đánh chiếm Jerusalem, thành phố được phân chia giữa ba tư lệnh đấu đá nhau. Các tư lệnh Do Thái trước tiên choảng nhau trong các sân Đền Thờ ngập máu, và sau đó cướp phá thành phố. Các chiến binh của họ lùng sục những vùng lân cận giàu có hơn, cướp vét nhà cửa, tàn sát đàn ông và hãm hiếp phụ nữ – ‘như đang đùa giỡn’. Điên cuồng vì quyền lực của mình và sự hấp dẫn của cuộc săn người, ắt hẳn say sưa với rượu vang cướp được, họ ‘đắm chìm trong trò phóng đãng nữ tính, tô điểm mái tóc và vận quần áo phụ nữ và trây trét đầu dầu thơm và vẽ mắt’. Bọn sát nhân tỉnh lỵ này, bước kênh kiệu trong ‘áo choàng nhuộm màu rực rỡ, đi đường gặp ai giết nấy. Với mức độ đồi bại thiện xảo, chúng ‘sáng chế những trò khoái lạc vô pháp’. Jerusalem, phó mặc cho ‘tình trạng nhơ nhớp không thể tha thứ được’, trở thành ‘một nhà thổ’, và phòng tra tấn – vậy mà vẫn là một chốn linh thiêng.
Đền Thờ phần nào cũng tiếp tục hoạt động. Trở lại tháng 4, các khách hành hương đã đến để dự Ngày Lễ Vượt Qua ngay trước khi quân La Mã khép vòng vây thành phố. Số dân thường chỉ vài chục ngàn, nhưng bây giờ thì người La Mã đã tóm luôn người hành hương và nhiều dân tị nạn chiến tranh, vì thế dân số trong thành phố giờ lên đến vài trăm ngàn người. Chỉ khi Titus vây hãm thành phố các ông trùm của bọn nổi loạn mới ngưng chém giết nhau và đoàn kết 21,000 chiến binh của mình để đương đầu với quân La Mã.
Thành phố mà Titus nhìn thấy lần đầu tiên từ Núi Scopus (được đặt tên từ chữ Hy Lạpskopeocó nghĩa là‘nhìn vào’),là, theo lời của sử gia Pliny, ‘thành phố lừng danh vượt xa mọi thành phố khác ở phía Đông’, một nơi đô hội phú cường, thịnh vượng được xây dựng chung quanh một trong những ngôi đền lớn nhất trong thế giới cổ đại, một công trình nghệ thuật tinh tế trên qui mô hùng vĩ. Jerusalem đã tồn tại hàng ngàn năm nhưng thành phố có tháp cao và nhiều tường thành bao bọc này, đứng giạng chân trên hai ngọn núi giữa những mỏm đá lởm chởm trơ trọi của Judas, chưa bao giờ đông dân hoặc đáng sợ như vào thế kỷ đầu tiên SCN: đúng ra Jerusalem không vĩ đại như thế một lần nữa cho mãi đến thế kỷ 20. Đây là thành tựu của Herod Đại Đế, vì vua Do Thái xuất sắc, loạn thần kinh, mà những cung điện và thành lũy của ông được xây dựng trên một qui mô hùng vĩ và trang hoàng xa xỉ đến nỗi sử gia Do Thái Josephus nói rằng chúng ‘vượt qua khả năng mô tả của ông’.
Đền Thờ cũng che mờ mọi thứ khác trong vẻ huy hoàng thần thánh của nó. ‘Ngay lúc mặt trời vừa mọc lên’, những vuông sân và cổng mạ vàng lấp lánh phản chiếu trở lại ánh sáng chói lóa rực lửa và khiến những ai nhìn vào chúng phải quay mặt đi’. Khi người lạ – như Titus và quân đoàn viễn chinh của ông – nhìn thấy Đền Thờ này lần đầu tiên, nó trông ‘như một ngọn núi phủ tuyết’. Những người Do Thái mộ đạo biết rằng ngay trung tâm sân của thành-phố-bên-trong-thành-phố này nằm trên đỉnh Núi Moriah là căn phòng nhỏ có tính linh thiêng bậc nhất gần như không chứa đựng gì cả. Khoảng không gian này là tiêu điểm của niềm tin thần thánh Do Thái: Thần Thánh của mọi Thần Thánh, nơi cư ngụ của chính Chúa Trời.
Đền Herod là một nơi thờ cúng nhưng cũng là một pháo đài gần như bất khả xâm phạm nằm bên trong thành phố có tường thành bao bọc. Người Do Thái, được cổ vũ bởi sự yếu kém của người La Mã trong Thời kỳ Bốn Hoàng đế và được hỗ trợ bởi độ cao dốc đứng của Jerusalem, các công sự phòng thủ và Đền Thờ như mê cung, đã đương đầu với Titus một cách tự tin đến nỗi cao ngạo. Suy cho cùng, họ đã thách thức La Mã gần như năm năm. Tuy nhiên, Titus sở hữu quyền uy, tham vọng, tài nguyên và tài năng cần thiết cho sứ mạng. Ông tiến hành làm yếu Jerusalem một cách hiệu quả và hệ thống với một sức mạnh áp đảo. Những quả pháo đá, ắt hẳn do Titus bắn đi, đã được tìm thấy trong những đường hầm cạnh tường phía tây của Đền, là chứng tích cho sự pháo kích dữ dội của La Mã. Người Do Thái liều mình chiến đấu gần như tự sát giành giựt từng tấc đất. Vậy mà Titus, chỉ huy toàn bộ sức mạnh của bộ máy vây hãm, máy bắn đá và sự tinh xảo của công binh La Mã, vượt qua được bức tường thành đầu tiên trong vòng 15 ngày. Ông dẫn 1,000 lính viên chính xông vào mê lộ của những khu chợ ở Jerusalem và tràn vào bức tường thứ hai. Nhưng quân Do Thái xông ra và chiếm lại. Lại phải tấn công ào ạt bức tường một lần nữa. Sau đó Titus ra sức gieo khiếp sợ cho thành phố bằng một cuộc diễu hành – giáp sắt, mũ sắt, lưỡi gươm lóe sáng, cờ bay phần phật, các tượng ó lấp lánh, ‘ngựa được phủ khăn rực rỡ’. Hàng ngàn cư dân Jerusalem tụ tập trên tường thành há hốc nhìn buổi diểu binh này, khâm phục ‘vẻ đẹp của giáp binh và tính kỷ luật đáng ngưỡng mộ của binh lính’. Người Do Thái vẫn thách thức, hoặc có thể vì quá sợ không dám bất tuân quân lệnh không được đầu hàng của các chỉ huy.
Cuối cùng, Titus quyết định bao vây và đóng chặn toàn thành phố bằng cách dựng lên một bức tường bao quanh. Vào cuối tháng 6, quân La Mã ào ạt tiến vào Pháo đài Antonia đồ sộ án ngữ Đền và rồi san bằng nó, chỉ chừa một tòa tháp tại đó Titus đặt bộ chỉ huy.
Vào giữa hè, khi những ngọn đồi lởm chởm và phồng rộp mọc lên những thi thể đóng đinh trên thập giá ruồi nhặng vo ve, còn người bên trong thành phố thì dày vò trước cảm thức của ngày tận số đang lơ lửng, cơn cuồng tín bất dung, trò ác dâm bệnh hoạn, và cơn đói hành hạ. Những bè lũ có vũ khí đi xục xạo săn lùng thức ăn. Trẻ con chộp lấy những mẫu thức ăn từ tay bố mình; mẹ lấy cắp miếng ngon của con ruột mình. Cửa khóa gợi ý có lương thực giấu trong đó và các chiến binh phá cửa xâm nhập, thọc cọc vào ‘trực tràng’ nạn nhân để bắt họ khai ra chỗ giấu thóc. Nếu không tìm thấy gì, họ thậm chí còn ‘tàn bạo dã man hơn’ như thể họ đã bị ‘lừa gạt’. Cho dù bọn binh lính còn đủ thực phẩm, họ vẫn giết và tra tấn vì thói quen ‘để luyện tập thói điên cuồng của mình’. Jerusalem bị sâu xé bởi các trận săn bắt phù thủy khi dân chúng tố cáo lẫn nhau là kẻ tích trữ và phản bội. Không thành phố nào khác, nhân chứng Josephus phản ảnh, ‘từng cho phép những nỗi bất hạnh như thế, cũng không có thời đại nào từng nuôi dưỡng một thế hệ trổ ra hoa trái của cái ác nhiều hơn thời đại này, từ thuở khởi đầu thế giới.
Người trẻ đi lang thang khắp đường phố ‘như những chiếc bóng, tất cả đều phù lên vì đói, và khuỵu xuống chết tốt, ngay tại nơi nỗi bất hạnh tóm lấy họ’. Người ta chết trong khi cố chôn gia đình mình trong khi kẻ khác được chôn cất bất cẩn khi đang còn thở. Đói kém nuốt trọn nhiều gia đình trong ngôi nhà mình. Những cư dân Jerusalem chứng kiến những người thân của mình chết ‘với cặp mắt khô khốc và miệng há hốc. Một bầu không khí tĩnh lặng nặng nề và một loại bóng đêm chết chóc tóm lấy thành phố’ – nhưng những ai trút hơi thở cuối cùng vẫn còn không quên ‘dán mắt vào Đền Thờ’. Đường phố chất đầy xác chết. Dù có luật Do Thái, chẳng bao lâu không ai muốn chôn người chết nữa trong nhà mồ hùng tráng này. Có lẽ Jesus Christ đã nhìn thấy trước được việc này khi ngài tiên đoán ngày Tận Thế sắp đến, khi nói ‘Hãy để người chết chôn người thân đã chết.’ Đôi khi bọn phản loạn chỉ cần quăng xác chết qua tường thành. Người La Mã để chúng chất đống thối rữa bốc mùi nồng nặc. Vậy mà bọn phản loạn vẫn còn chiến đấu.
Chính Titus, một chiến binh La Mã dạn dày, đã giết 12 người Do Thái với chiếc cung của mình trong trận đột kích đầu tiên, cũng phải khiếp đảm và sững sờ: ông chỉ có thể rên rỉ với Thượng đế là việc này không do mình làm.’ Đứa con cưng và niềm vui của nhân dân,’ ông nổi danh vì tính hào sảng. ‘Hỡi các bạn, ta đã đánh mất một ngày,’ ông sẽ nói thế mỗi khi không có thời gian gởi quà cáp cho các đồng chí mình. Vạm vỡ và cục mịch với chiếc cằm chẻ, miệng rộng và gương mặt bầu bĩnh, Titus đã chứng tỏ mình là một vị tư lệnh tài cán và đứa con trai được nhân dân yêu mến của vị hoàng đế mới Vespian: triều đại của họ chưa được vinh danh phụ thuộc vào thắng lợi của Titus trong việc dẹp trừ bọn phản loạn Do Thái.
Đoàn tùy tùng của Titus chứa đầy bọn phản bội Do Thái trong đó có ba người Jerusalem – một sử gia, một ông vua và (hình như) một hoàng hậu kép chia sẻ cái giường của Caesar. Sử gia là cố vấn Josephus của Titus, một chỉ huy Do Thái phản loạn theo về với bọn La Mã và là nguồn tư liệu duy nhất cho cậu chuyện kể ra đây. Vị vua là Herod Agrippa II, một người Do Thái rất La Mã, được nuôi dưỡng tại triều đình của Hoàng đế Claudius; ông đã là người giám sát Đền Thờ Do Thái, do ông cố của ông là Herod Đại Đế xây dựng, và thường cư trú trong cung điện Jerusalem, cho dù ông cai trị nhiều vùng lãnh thổ rất khác biệt nhau nằm khắp miền bắc của Israël, Syria và Lebanon ngày nay.
Nhà vua chắc hẳn có dẫn em gái mình, Berenice, con gái của một quốc vương Do Thái, và hai lần làm hoàng hậu qua hôn lễ, và gần đây trở thành nhân tình của Titus. Kẻ thù La Mã của bà sau này lên án bà là ‘Cleopatra Do Thái’. Bà khoảng 40 nhưng ‘đang ở những năm tươi đẹp nhất của thời xuân sắc’, Josephus đã ghi nhận như vậy. Ngay từ khi cuộc nổi dậy khởi phát, bà và anh trai đang sống chung (một cách loạn luân, kẻ thù họ tuyên bố), đã nỗ lực đối đầu với quân phản loạn và kêu gọi họ hãy biết lý lẽ lần chót. Giờ đây ba người Do Thái này bất lực chứng kiến ‘cơn hấp hối của một thành phố lừng lẫy’ – và Berenice làm như thế từ trên chiếc giường của kẻ đã tàn phá nó.
Các tù nhân và bọn đào ngũ mang tin tức trong thành ra, khiến Josephus vô cùng lo lắng, vì cha mẹ ông còn bị kẹt bên trong. Ngay cả các binh lính đã bắt đầu hết lương, vì thế chúng lục lạo và phanh thây bất kể người sống chết để tìm vàng, vụn thức ăn, thậm chí hạt thóc, ‘đi loạng choạng, vấp váp như lũ chó dại.’ Chúng ăn phân bò, da thuộc, thắt lưng, giày dép và rơm rạ. Một phụ nữ giàu có tên Mary, đã mất hết tiền và thực phẩm, đã hóa điên đến nỗi giết cả con trai mình và nướng nó, ăn hết phân nửa và giữ phần còn lại cho bữa sau. Mùi thịt nướng ngon lành len lỏi khắp thành phố. Bọn phản loạn đánh mùi, tìm đến và xô cửa vào nhà. Nhưng thậm chí những tên sát thủ chai lì này, khi thấy thi thể của đứa bé còn đang được ăn dang dở, ‘run rẩy bước ra ngoài.’
Rình rập và hoang tưởng đang ngự trị thành phố thần thánh. Các tay lang băm hò hét và các quan tư tế thuyết giảng lảng vảng đường phố, hứa hẹn sẽ cứu nguy và cứu rỗi. Jerusalem như, theo nhận xét của Josephus, ‘như một mãnh thú hóa rồ, vì không kiếm được thức ăn, giờ đang lao vào ăn thịt chính mình’.
Đêm ngày 8 tháng Ab đó, khi Titus đã lùi về doanh trại để nghỉ ngơi, các binh sĩ ra sức dập tắt đám lửa do bạc chảy lan ra, như ông đã ra lệnh. Nhưng quân phản loạn lại tấn công những lính viễn chính đang ra sức chế ngự hoả hoạn. Quân La Mã phải đánh trả và đẩy lùi bọn Do Thái vào tận Đền Thờ. Một người lính, trong một cơn ‘thịnh nộ thần linh’, chụp lấy một vật đang ngún cháy và, nhờ một binh sĩ khác nâng lên, châm đốt màn và khung ‘một cánh cửa bằng vàng’, liên kết với các gian phòng bao quanh Đền Thờ. Đến sáng, lửa đã lan đến ngay trung tâm của nơi linh thiêng. Người Do Thái, khi trông thấy ngọn lửa đã liếm đến Nơi Chí Thánh và đe đọa phá hủy nó, ‘liền kêu lên ầm ĩ và chạy đến ngăn cản.’ Nhưng đã quá muộn. Họ đứng án ngữ ở Sân Trong chỉ biết đứng nhìn trong nỗi câm lặng kinh hoàng.
Chỉ cách đó vài thước, giữa đống đổ nát của Pháo đài Antonia, Titus tỉnh giấc; ông tung người nhổm dậy và ‘chạy về phía Đền Thờ để ngăn chặn đám lửa.’ Quần thần của ông trong đó có Josephus và ắt hẳn có Vua Agrippa và Berenice, chạy theo, và sau họ là hàng ngàn binh lính La Mã – tất cả đều ‘trong nổi sững sờ’. Cuộc giao chiến thật điên cuồng. Theo lời kể của Josephus, Titus một lần nữa ra lệnh dập tắt ngọn lửa, nhưng kẻ hợp tác với La Mã này có lý do để nói tốt cho chủ mình. Dù sao thì mọi người cũng la ó, còn lửa vẫn gầm thét và quân La Mã biết rằng, theo luật chiến tranh, thành phố nào kháng cự quá gan lì dân chúng thường bị tống cổ đuổi đi.
Họ giả vờ không nghe Titus và thậm chí hét về phía trước cho đồng đội ném thêm vật cháy vào. Bọn lính viễn chinh quá kích động đến nỗi nhiều tên bị giẫm đạp hoặc bị thiêu đến chết trong đoàn người ào ạt xông lên chém giết và cướp vàng, vơ vét nhiều đến nỗi giá vàng chẳng bao lâu hạ xuống trên khắp miền Đông. Titus, không thể dập tắt đám cháy và ắt hẳn nhẹ nhõm trước viễn cảnh thắng lợi cuối cùng, tiến lên qua Đền Thờ đang bốc cháy đến tận Nơi Chí Thánh. Ngay cả các trưởng giáo chỉ được phép vào đó mỗi năm một lần. Không người ngoại bang nào đã vấy bẫn sự tinh khiết của nó kể từ chính khách-quân nhân Pompey đến đây vào 63 TCN. Titus nhìn vào trong ‘và nhìn thấy nó và vật dụng bên trong mà ông cho rằng hơn cả tuyệt vời, Josephus viết, đúng ra ‘không tệ hơn những gì chúng tôi huênh hoang về nó’. Giờ ông ra lệnh các bách trưởng đánh roi các binh sĩ tiếp tay cho đám cháy, nhưng ‘nhiệt tình của họ quá mạnh mẽ’. Khi địa ngục lửa dâng cao bao bọc Nơi Chí Thánh, Titus được các phụ tá kéo ra chỗ an toàn – ‘và không còn ai cấm cản họ phóng hỏa nó nữa’.
Trận đánh vẫn diễn ra ác liệt giữa đám cháy: những người Jerusalem đói khát, choáng váng đi lang thang như người mất hồn qua những hành lang bốc lửa. Hàng ngàn dân thường và quân phản loạn chen chúc trên các bậc thang của áng thờ, chờ đợi chiến đấu đến cùng hoặc chỉ để chết trong tuyệt vọng. Tất cả đều bị bọn lính La Mã reo hò cắt họng như thể đó là vật hiến tế hàng loạt, cho đến khi ‘quanh áng thờ những thi thể nằm chất đống lên nhau’ và máu chảy như suối xuống các bậc thang. Mười ngàn người Do Thái bị giết chết trong ngôi Đền bốc cháy.
Tiếng những tảng đá to nứt ra và tiếng các rầm gỗ đổ xuống nghe như tiếng sấm. Josephus chứng kiến cái chết của Đền Thờ:
Tiếng gào của lửa vang vọng ra xa hòa quyện với tiếng rên xiết của những nạn nhân ngã xuống và do chiều cao của ngọn đồi và khối lượng của đám cháy, người ta ắt hẳn đã nghĩ toàn thể thành phố đang bốc cháy. Và rồi tiếng đinh tai – không có âm thanh nào làm chói tai và khiếp đảm hơn tiếng đó. Đó là tiếng hô xung trận của các quân đoàn La Mã ồ ạt xông tới, tiếng gào hú của quân phản loạn bị lửa và kiếm bao vây, tiếng chân rầm rập của dân chúng, không thể tiến lên trên, chạy vội hoảng kinh xuống dưới chỉ để rơi vào vòng tay của kẻ thù, và tiếng kêu thét đau đớn khi họ đón nhận số phận của mình, hòa lẫn với tiếng kêu khóc và gào thét của người dân trong thành phố. Xuyên qua xứ Jordan và những ngọn núi bao quanh vang dội những âm vang, làm tiếng đinh tai thêm sâu lắng. Ắt hẳn bạn sẽ nghĩ ngọn đồi Đền Thờ đang sôi sục từ tận dưới chân, ở đâu cũng lửa là lửa.
Núi Moriah, một trong hai ngọn núi của Jerusalem, nơi vua David đã đặt chiếc Hòm Giao ước và nơi con trai ông Solomon đã xây dựng Đền Thờ đầu tiên, ‘ngun ngút lửa nóng khắp mọi phía’, trong khi bên trong, những thi thể ngổn ngang khắp sàn. Binh lính La Mã giẫm bừa lên xác chết xông tới. Các tu sĩ kháng cự lại và một số nhảy vào lửa đỏ tự sát. Giờ các binh lính La Mã hùng hổ, thấy Đền Thờ bên trong đã bị phá hủy, chộp lấy vàng bạc và châu báu, vác đồ cướp bóc ra, rồi thiêu rụi phần còn lại của phức hợp.
Khi Sân Trong đã cháy, và ngày hôm sau đã ló dạng, bọn phản loạn còn sống sót mở đường máu xông ra khỏi chiến tuyến La Mã vào Sân Ngoài rối rắm như một mê cung, một số trốn thoát vào thành phố. Quân La Mã phản công bằng kỵ binh, quét sạch bọn phản loạn, rồi đốt cháy các phòng kho tàng của Đền Thờ, chứa đầy của cải mà tất cả dân Do Thái từ Alexandria đến Babyy nộp thuế cho Đền Thờ. Họ bắt gặp tại đó 6,000 đàn bà và trẻ con túm tụm cùng nhau, ngóng chờ ngày phán xét. Một ‘tên tiên tri giả mạo’ trước đó đã tuyên bố họ có thể trông chờ ‘những dấu hiệu màu nhiệm sẽ cứu vớt họ’ trong Đền Thờ. Bọn viễn chính La Mã lạnh lùng phóng hoả thiêu sống tất cả đám dân chúng này.
Quân La Mã đem các huy hiệu đại bàng của họ lên Núi Thánh, cúng tế các vị thần của mình, rồi tung hô Titus như vị thống soái. Các giáo sĩ còn lấp ló quanh phía ngoài Nơi Chí Thánh. Hai người liều xông vào đám lửa và một người thành công mang ra được những báu vật của Đền Thánh – bộ y phục của Trưởng Tế, hai giá nến và các túi hạt quế và muồng, các gia vị được xông lên mỗi ngày trong Điện thờ. Khi những người còn lại đầu hàng, Titus cho hành hình họ vì ‘bọn giáo sĩ phải chết cùng với Đền Thờ mới phải đạo’.
Jerusalem đã là – và còn là – thành phố của các địa đạo. Giờ thì bọn phản loạn đã mất hút dưới đất trong khi vẫn còn kiểm soát Thành lũy và Thành Thượng ở phía tây. Phải mất thêm một tháng nửa Titus mới chinh phục hết Jerusalem. Khi nó thất thủ, người La Mã và các chư hầu Syria và Hy Lạp ‘ùa vào mọi ngõ ngách. Gươm lăm lăm trên tay; họ tàn sát vô tội vạ tất cả ai họ gặp và phóng hỏa mọi căn nhà cùng người trốn tránh bên trong.’ Ban đêm khi trận chém giết đã ngưng, ‘chỉ con lửa là ngự trị đường phố’.
Titus trao đổi với hai chỉ huy Do Thái ở hai đầu cầu bắc qua thung lũng giữa Đền Thờ và thành phố, với điều kiện nếu đầu hàng thì toàn mạng. Nhưng họ từ khước. Ông ra lệnh đốt phá và cướp bóc Thành Hạ, tại đó gần như mọi nhà đều ngập ngụa xác chết. Khi các tư lệnh Jerusalem rút lui vào Cung điện Herod và Thành lũy, Titus xây những thang leo để công phá họ và vào ngày 7 tháng Elul, tức giữa tháng 8, quân La Mã tràn vào các công sự. Bọn nổi dậy tiếp tục chiến đấu dưới địa đạo cho đến khi một lãnh tụ của họ, John xứ Gishala, đầu hàng (ông ta được tha chết nhưng phải ở tù chung thân). Lãnh tụ khác Simon ben Giora ló ra khỏi một đường hầm bên dưới Đền Thờ trong bộ áo choàng trắng, và được giao một vai chính trong Khúc Khải Hoàn của Titus, lễ mừng chiến thắng ở La Mã.
Trong cuộc hành hạ trả thù và hủy diệt có phương pháp sau đó, một thế giới biến mất, chỉ còn lại một ít thời khắc đóng băng qua năm tháng. Người La Mã làm thịt những người già cả và tàn tật: bàn tay chỉ còn trơ xương của một phụ nữ được tìm thấy trên bậc của ngôi nhà bị thiêu rụi phơi bày nỗi kinh hoàng và khiếp đảm, tro than của những lâu đài trong Khu Do Thái kể cho ta biết về hoả ngục. Hai trăm đồng tiền được tìm thấy trong một cửa tiệm trên con phố chạy bên dưới cầu thang đồ sộ dẫn đến Đền Thờ, một món tiền ắt hẳn được cất giấu bí mật trong những giờ phút cuối cùng trước khi thành phố thất thủ. Chẳng bao lâu bọn La Mã cũng chán ngấy việc giết chóc. Người Jerusalem bị lùa vào các trại tập trung dựng lên trong Khu Phụ nữ của Đền tại đó họ bị thanh lọc: chiến binh bị giết; người khỏe mạnh được gởi đi làm việc trong các hầm mỏ Ai Cập; ai trẻ và đẹp thì được bán làm nô lệ, được chọn để bị giết trong những trò đánh nhau với sư tử trong gánh xiếc hoặc trong buổi lễ Khải Hoàn.
Josephus lùng sục qua đám tù binh đáng thương trong các sân Đền, tìm kiếm em trai và 50 người bạn mà ông xin Titus tha mạng. Cha mẹ ông chắc đã chết trong cơn loạn lạc. Nhưng ông nhận ra ba người bạn trong số những người bị đóng đinh trên thập giá. ‘Tôi đau xé lòng và báo với Titus,’ ông ta liền ra lệnh mang họ xuống và thuốc thang chăm sóc. Nhưng chỉ có một người sống sót.
Titus quyết định, như Nebuchadnezzar, xóa sổ Jerusalem, một quyết định mà Josephus đổ tội cho phe nổi loạn: ‘Bọn phản nghịch hủy diệt thành phố còn người La Mã hủy diệt bọn phản nghịch.’ Việc đài tưởng niệm hùng vĩ nhất của Herod Đại Đế, Đền Thờ, ngã đổ, ắt hẳn là một thách thức về việc xây dựng. Các đá khối khổng lồ của Cổng Hoàng gia đổ xập xuống vỉa hè mới bên dưới và ở đó chúng được tìm thấy gần 2,000 năm sau thành một đống đồ sộ, đúng như khi chúng rơi xuống, được đá vụn che lấp bên dưới. Đống đổ nát thì được đổ xuống thung lũng sát bên Đền Thờ, gần như lấp kín khe vực, giờ gần như là mất dấu vết, giữa Núi Đền và Thành Thượng. Nhưng những bức tường chống giữ Núi Đền, kể cả Tường phía Tây ngày nay vẫn còn sống sót. Những khối đá xây Đền Thờ của Herod và thành phố đã rơi ra nằm vươn vãi khắp mọi nơi ở Jerusalem, được dùng đi dùng lại bởi mọi người chinh phục và xây dựng Jerusalem, từ người La Mã đến người Ả Rập, từ các Thập Tự quân đến người Ottoman, trong hơn một ngàn năm sau đó.
Không ai biết rõ có bao nhiêu người đã chết ở Jerusalem, và các sử gia cổ đại luôn cẩu thả với những con số. Tacitus nói có 600,000 người trong thành phố bị vây hãm, trong khi Josephus cho là hơn một triệu. Dù còn số thực sự là bao nhiêu,nó phải rất lớn, và tất cả những người này đều chết vì đói, vì bị giết hoặc bị bán làm nô lệ.
Titus lên đường làm một chuyến ăn mừng chiến thắng rùng rợn. Người tình Berenice của ông và ông anh Vua Agrippa tiếp đãi ông trong kinh đô Caesarea Philippi của họ, ngày nay toạ lạc trên Cao nguyên Golan. Tại đó ông nhìn hàng ngàn tù binh Do Thái chém giết nhau đến chết – và giữ mạng trước móng vuốt mãnh thú. Một ít ngày sau, ông xem một nhóm 2,500 người khác biếu diễn cuộc tàn sát tại Caesarea Maritima và thêm nhiều người nữa bị giết chóc để mua vui ở Beirut trước khi Titus trở lại La Mã để ăn mừng lễ hội Khải Hoàn.
Quân viễn chinh ‘phá hủy hoàn toàn phần còn lại của thành phố và giật sập tường thành’. Titus chỉ để lại các tòa tháp của Thành lũy Herod ‘làm đài kỷ niệm cho vận may của mình’. Tại đó Quân đoàn 10 đóng bộ chỉ huy. ‘Đây là đoạn kết mà Jerusalem phải đi đến, Josephus viết, ‘nếu không sẽ là một thành phố hùng tráng và lừng lẫy trên chốn nhân gian’.
Năm thế kỷ trước Jerusalem đã từng bị Nebuchadnezzar, Vua Babylon, tàn phá. Trong vòng 50 năm kể từ lần hủy diệt đầu tiên đó, Đền được xây dựng lại và người Do Thái trở về. Nhưng lần này, sau năm 70 SCN, Đền không hề được xây dựng lại – và, trừ một ít khoảng thời gian xen kẽ ngắn ngủi, người Do Thái sẽ không cai trị Jerusalem lần nữa cho đến gần 2,000 năm sau. Vậy mà trong đống tro tàn của tai họa này vẫn nằm đây những hạt mầm không những của đức tin Do Thái hiện đại mà còn đức tin vào sự thần thành của Jerusalem đối với Cơ đốc giáo và Hồi giáo.
Từ đầu cuộc vây hãm, theo nhiều truyền thuyết trong giới giáo sĩ Do Thái về sau này, Yohanan ben Zakkai, một giáo sĩ khả kính, tự nằm vào quan tài và ra lệnh các đệ tử khiêng ra khỏi thành phố đang chết, một hình tượng của nền tảng đạo Do Thái mới không còn dựa vào sự thờ cúng hiến tế trong Đền Thờ.
Người Do Thái, tiếp tục sống trong vùng quê Judas và Galileo, cũng như trong những cộng đồng rộng lớn trên khắp đế chế La Mã và Ba Tư, than khóc cho Jerusalem đã mất và tôn kính thành phố mãi mãi về sau này. Kinh Thánh và truyền thống truyền khẩu thay thế cho Đền Thờ, nhưng người ta nói rằng Đấng Tối cao đã đợi ba năm rưỡi trên Núi Olives để xem Đền có phục hồi lại chưa – trước khi bay về trời. Sự hủy diệt cũng có tính quyết định đối với tín đồ Cơ đốc.
Cộng đồng Cơ đốc nhỏ ở Jerusalem, do em họ Jesus là Simon dẫn đầu, đã trốn thoát khỏi thành phố trước khi bọn La Mã khép vòng vây. Cho dù có nhiều tin đồ Cơ đốc không phải Do Thái sống đây đó trong thế giới La Mã, những cư dân Jerusalem này vẫn duy trì là một giáo phái Do Thái cầu nguyện tại Đền Thờ. Nhưng bây giờ Đền Thờ đã bị phá hủy, người Cơ đốc tin rằng người Do Thái đã đánh mất ân sủng của Chúa Trời: những đệ tử của Jesus tách riêng ra mãi mãi khỏi đức tin nguồn cội, tự nhận mình là kẻ kế thừa thực sự đối với di sản Do Thái. Người Cơ đốc nhìn thấy một Jerusalem mới mẻ, ở tầng trời, chứ không phải là thành phố Do Thái đổ nát. Các sách Phúc âm sớm nhất, ắt hẳn được soạn ra ngay sau khi cuộc hủy diệt, kể lại Jesus đã thấy trước ra sao cuộc vây hãm thành phố: ‘ngươi sẽ chứng kiến Jerusalem bị quân lính tràn ngập’, và sự phá sập Đền Thờ: ‘Không một viên đá nào còn ở lại.’ Điện thờ đổ nát và sự suy vong của người Do Thái là minh chứng cho một mặc khải mới. Trong thập niên 620, khi Muhammad sáng lập tôn giáo mới, đầu tiên ông ta công nhận những truyền thống Do Thái, cầu nguyện hướng về Jerusalem và tôn kính các tiên tri Do Thái, vì đối với ông cũng vậy Đền Thờ bị phá hủy là mình chứng việc Thượng đế đã ruồng bỏ người Do Thái và giáng phúc cho đạo Hồi.
Mỉa may thay việc Titus quyết định hủy diệt Jerusalem đã giúp cho thành phố trở thành biểu hiện thần thánh cho hai Dân tộc khác của Kinh thánh. Ngay từ khởi đầu, sự linh thiêng của Jerusalem không chỉ tiến hóa mà còn được thăng hoa bởi các quyết định của một nhóm người. Khoảng 1000 TCN, một ngàn năm trước thời Titus, người đầu tiên trong nhóm này đã đánh chiếm Jerusalem: Vua David.
 

Mời các bạn mượn đọc sách Jerusalem Những Thăng Trầm Lịch Sử của tác giả Simon Sebag & Trần Quang Nghĩa (dịch).


Giá bìa 148.000

Giá bán

105.000

Giá bìa 148.000

Giá bán

105.000